Tin tức động thái
Bạn đang ở vị trí:
Trang chủ
/
/
Thiên địa Kiến thức
01-19

[Loài nho (danh pháp khoa học: ) thuộc họ Nho, chi Nho, là một loại cây leo gỗ nhỏ, thân hình trụ có rãnh dọc, không lông hoặc chỉ có lông tơ mỏng. Lá hình oval, cụm hoa hình nón thưa hoặc dày, nhánh gốc phát triển mạnh mẽ, quả hình tròn hoặc bầu dục, hoa nở vào tháng 4-5, quả chín vào tháng 8-9. Nho là một trong những loài cây ăn quả lâu đời nhất trên thế giới, hóa thạch của cây nho đã được tìm thấy trong tầng địa chất thời Tân Cổ sinh, cho thấy nó từng phổ biến ở châu Âu, châu Á và Nho bản địa của khu vực tây nam châu Á, hiện nay đã được trồng trên toàn thế giới, với khoảng 95% diện tích trồng tập trung ở bán cầu Bắc. Nho là loại trái cây nổi tiếng, dùng để ăn tươi hoặc làm khô, sản xuất rượu vang, từ đó thu được axit tartaric, rễ và dây leo có thể dùng làm thuốc để trị nôn mửa và an thai. **Đặc điểm hình thái:** Là cây leo gỗ. Thân hình trụ có rãnh dọc, không lông hoặc chỉ có lông tơ mỏng. Cuống cuốn chia nhánh hai nhánh, cách 2 đốt ngắt quãng và đối xứng với lá. Lá hình oval, có thể phân thành 3-5 thùy nông hoặc trung bình, dài từ 7-18 cm, rộng từ 6-16 cm, thùy giữa nhọn ở đỉnh, các thùy thường tiếp xúc nhau, phần gốc thường thắt lại, khe sâu hẹp hoặc rộng, gốc hình tim sâu, khe gốc lõm thành hình tròn, hai bên thường tiếp xúc, mép có 22-27 răng cưa, răng sâu và lớn, không đều, đầu răng nhọn, mặt trên màu xanh đậm, mặt dưới màu xanh nhạt, không lông hoặc có lông tơ mỏng; gân chính 5 nhánh, gân phụ có 4-5 cặp, mạng gân không rõ nổi bật; cuống lá dài 4-9 cm, gần như không lông; phiến lá rụng sớm. Cụm hoa hình nón thưa hoặc dày, nhiều hoa, đối xứng với lá, nhánh gốc phát triển mạnh, dài từ 10-20 cm, cuống cụm hoa dài 2-4 cm, gần như không lông hoặc có lông tơ như sợi tơ, cuống hoa dài 1,5-2,5 mm, không lông; nụ hoa hình bầu dục, cao 2-3 mm, đỉnh gần tròn; đài hoa hình đĩa nông, mép sóng, không lông ngoài; có 5 cánh hoa, hình mũ dính lại và rụng; có 5 nhị hoa, nhị hình sợi, dài 0,6-1 mm, phấn hoa màu vàng, hình bầu dục, dài 0,4-0,8 mm, trong hoa cái ngắn hơn và teo tóp hoặc hoàn toàn thoái hóa; đài hoa phát triển, 5 thùy nông; nhụy cái 1, trong hoa đực hoàn toàn thoái hóa, bầu quả hình bầu dục, cuống ngắn, đầu cột hoa mở rộng. Quả hình tròn hoặc bầu dục, đường kính 1,5-2 cm; hạt hình bầu dục ngược, đỉnh gần tròn, có mỏ ngắn ở gốc, vết hạt ở mặt sau giữa hình bầu dục, rãnh hạt hơi nhô ra, mặt bụng có rãnh nổi lên, hai bên có hố sâu hình rãnh rộng, kéo dài đến 1/4 chiều dài hạt. Hoa nở từ tháng 4-5, quả chín từ tháng 8-9. **Môi trường sống:** Nhiệt độ tối thiểu mà nho cần khi phát triển là khoảng 12°C-15°C, nhiệt độ đất tối thiểu khoảng 10°C-13°C, nhiệt độ lý tưởng cho quá trình thụ phấn là khoảng 20°C, nhiệt độ lý tưởng cho giai đoạn phình quả là từ 20°C-30°C. Nếu chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lớn thì màu sắc và hàm lượng đường sẽ tốt hơn. Khi nho bắt đầu mầm xuân, nếu nhiệt độ tăng nhanh sẽ dễ dẫn đến hiện tượng thân cây phát triển quá mức, biểu hiện bằng khoảng cách giữa các đốt dài nhưng không đầy đủ, quá trình thụ phấn dễ bị ảnh hưởng, nếu gặp thời tiết lạnh cần bổ sung thêm phosphat và chất hữu cơ giàu carbon, giảm tối đa phân đạm. Nước Nho cần nước khá nhiều trong giai đoạn đầu hoặc giai đoạn dinh dưỡng, trong giai đoạn sau hoặc giai đoạn kết quả, bộ rễ yếu đi và cần ít nước hơn, tránh gây tổn thương rễ để đảm bảo chất lượng. Nho sợ mưa và sương, năm mưa nhiều dễ gây thiếu ánh sáng mặt trời, ảnh hưởng đến quá trình quang hợp, hấp thụ quá nhiều nước dễ gây hiện tượng thân cây phát triển quá mức và độ ẩm cao, rất dễ dẫn đến các bệnh khác nhau như bệnh đen, bệnh nấm xám. Do đó, trong thời kỳ ra hoa, việc giữ chiều cao của cành nên nằm trong khoảng 40-70 cm là lý tưởng; tại các khu vực dễ nứt quả, lượng nước tưới trong giai đoạn kết quả cũng cần kiểm soát. Tại các vùng thiếu nước và dễ bị khô hạn, cần phủ thêm rơm để giữ ẩm đất, đồng thời cũng giúp kiểm soát sự phát triển của cỏ. **Ánh sáng:** Trong giai đoạn phát triển bình thường, nho cần một cường độ ánh sáng nhất định, nhưng ánh sáng quá mạnh đặc biệt trong giai đoạn cứng hạt dễ dẫn đến bệnh cháy nắng, lúc này có thể sử dụng bao bọc hoặc giữ lại lá che phủ quả. Nếu thiếu ánh sáng, dễ gây hiện tượng rụng hoa do không thụ phấn tốt, tỷ lệ thụ phấn thấp; trong giai đoạn phân hóa nụ hoa, nụ hoa phân hóa kém, quả đơn tính nhiều; trong giai đoạn sinh trưởng, thân cây phát triển quá mức, khoảng cách giữa các đốt dài; không kết quả hoặc chỉ kết quả đơn tính; trong giai đoạn phình quả, bệnh hại và chất lượng quả kém; giai đoạn chín, màu sắc kém, hàm lượng đường giảm. **Đất trồng:** Mặc dù nho có thể trồng trên nhiều loại đất (đất đã cải tạo), nhưng đất phù sa và đất pha cát tốt nhất. Đất cát thoáng khí tốt nhưng khả năng giữ phân và nước kém. Đất phù sa nằm giữa đất cát và đất sét, khả năng giữ phân và nước tốt hơn, phần lớn đất tương đối màu mỡ, trong giai đoạn sinh trưởng mạnh mẽ, dễ xảy ra hiện tượng rụng hoa và quả đơn tính, khi điều kiện ánh sáng và nhiệt độ cao, kết quả tốt, năng suất cao. Khi nhiệt độ thấp và ánh sáng kém, kết quả không tốt, năng suất thấp; hàng ngày chú ý thoát nước, tránh canh tác sâu, cắt tỉa nhẹ vào mùa đông, mùa hè có thể cắt tỉa nhiều hơn, phun thêm borax, kali dihydrophosphat và Đất sét thông thoáng kém nhưng giữ phân và nước tốt, quá trình phân hủy và hấp thụ chất dinh dưỡng chậm, hiện tượng phát triển quá mức ban đầu ít xảy ra, hiện tượng rụng hoa và quả đơn tính ít hơn, nhưng trong giai đoạn phát triển sau dễ phát triển quá mức, chùm quả và quả to nhưng hàm lượng đường và chất lượng thịt thường không tốt, nên bổ sung nhiều chất hữu cơ giàu carbon hoặc thêm một ít cát để cải thiện, đất acid nên sử dụng lượng vôi vừa đủ để trung hòa. **Dinh dưỡng:** Nho giống như hầu hết các loại cây trồng khác, cần khoảng 17 nguyên tố dinh dưỡng: cacbon, hydro, oxy, nitơ, photpho, kali, canxi, magie, lưu huỳnh, sắt, manga, kẽm, đồng, bo, molipden, clo, coban, trong đó cacbon và oxy lấy từ khí CO2 trong không khí, hydro lấy từ nước trong đất, các nguyên tố còn lại ngoài nitơ đều được hấp thụ qua rễ từ đất, tỷ lệ giữa chúng là: 94%-99,5% trong mô cây tươi được cấu tạo bởi sự kết hợp của carbon, hydrogen và oxygen từ không khí và nước, chỉ khoảng 0,5%-6% là từ các yếu tố dinh dưỡng trong đất. Phân bón hóa học chủ yếu cung cấp ba yếu tố nitơ, photpho, kali, một số loại phân còn chứa nhiều canxi, magie, lưu huỳnh, hiệu quả sử dụng phân hóa học tuy rõ ràng nhưng sử dụng quá liều dễ gây độc hại, đặc biệt cần cẩn thận khi sử dụng kali. Phân hữu cơ có hàm lượng dinh dưỡng thấp hơn nhưng có thể sử dụng với số lượng lớn, đồng thời có tác dụng cải thiện tính chất vật lý, hóa học và sinh học của đất. Ngoài ra, có thể thêm chất cải tạo đất tùy theo tình trạng đất, nói chung, đất có tính acid mạnh thường thiếu photpho, kali, canxi, magie, silic, molipden, kẽm, đồng, bo; đất kiềm hoặc đất vôi dễ thiếu nitơ, photpho, sắt, manga, kẽm, đồng. **Phân bố:** Nho bản địa của khu vực tây nam châu Á, hiện nay đã được trồng trên toàn thế giới, với khoảng 95% diện tích trồng tập trung ở bán cầu Bắc. Các khu vực trồng chính ở Trung Quốc bao gồm Tứ Xuyên, Thanh Hải, Tân Cương, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. **Phương pháp nhân giống:** Nhân giống bằng phương pháp cấy chồi không cần kích thích mọc rễ (cấy chồi ngoài trời). Đầu mùa xuân, lấy các cành đã được bảo quản trong hầm ra ngoài, trước tiên ngâm trong nước sạch 6-8 giờ, sau đó tiến hành cắt tỉa. Thông thường cắt cành thành từng đoạn có 2-3 mắt chồi. Mỗi đoạn cành dài khoảng 20 cm, các giống có khoảng cách mắt chồi dài hơn mỗi đoạn chỉ giữ 1-2 mắt chồi. Khi cắt, phần trên cắt ngang ở phía trên mắt chồi 1 cm, phần dưới cắt nghiêng ở phía dưới mắt chồi, tạo hình "tai ngựa" (khi khoảng cách từ mắt chồi gần hơn sẽ dễ ra rễ). Mắt chồi trên đoạn cành phải đầy đủ và chắc chắn, nếu mắt chồi đầu tiên bị hư hỏng, mắt chồi thứ hai có thể nảy mầm, điều này giúp tăng tỷ lệ sống của cành cấy. Đất trồng nên chọn nơi bằng phẳng, tầng đất dày, đất tơi xốp và giàu dinh dưỡng, đồng thời có nguồn nước tưới tiêu thuận lợi. Đầu mùa thu, đào sâu đất khoảng 30-40 cm, kết hợp với việc đào sâu, mỗi hecta bón từ 3000-5000 kg phân hữu cơ, và tiến hành tưới nước vào mùa đông. Sau khi đất tan băng vào mùa xuân, tiến hành cào đất giữ ẩm kịp thời. Có thể trồng cấy theo phương pháp luống phẳng, luống cao hoặc luống, luống phẳng chủ yếu được sử dụng ở khu vực khô hạn để thuận tiện tưới tiêu; luống cao và luống chủ yếu được sử dụng ở khu vực đất ẩm ướt để thuận tiện thoát nước và ngăn ngừa độ ẩm trên mặt luống quá cao. Dù trồng theo phương pháp nào, trước khi trồng cấy phải chuẩn bị luống. Kích thước luống phụ thuộc vào hình dạng khu đất, thông thường luống rộng 1 mét, dài 8-10 mét, khoảng cách giữa các cây trồng 12-15 cm, khoảng cách giữa các hàng 30-40 cm, mỗi luống trồng từ 3-4 hàng. Khi trồng cấy, cành chồi được trồng nghiêng xuống đất, phần mắt chồi lộ ra khỏi mặt đất, đảm bảo mắt chồi nằm ở phía trên lưng cành chồi, như vậy cây con mới mọc sẽ thẳng đứng. Khi trồng theo luống, khoảng cách giữa các luống khoảng 30 cm, cao 15 cm, khoảng cách giữa các luống 50-60 cm, khoảng cách giữa các cây trồng 12-15 cm, toàn bộ cành chồi được trồng nghiêng trên luống. Sau khi trồng, tưới nước trong rãnh luống, nếu có điều kiện, có thể phủ màng nilon trước khi trồng sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn. Dù sử dụng phương pháp trồng nào, khi trồng cần chú ý không để phần trên của cành chồi vượt quá mặt đất quá nhiều, đồng thời tránh trồng lung tung và tránh lẫn lộn giống. Thời điểm trồng cấy nên bắt đầu khi nhiệt độ đất (15-20 cm dưới mặt đất) ổn định ở mức 10°C trở lên. Khu vực miền Bắc thường bắt đầu từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4, nhưng khu vực miền Bắc xa hơn có thể chỉ trồng vào đầu tháng 4. Sau khi cấy chồi, trong giai đoạn trước khi rễ mới phát triển, cần đặc biệt chú ý duy trì độ ẩm của đất, thường tưới nước khoảng 10 ngày một lần. Đất nặng cần tưới nước ít hơn, nếu tưới quá nhiều, đất quá ẩm, nhiệt độ đất giảm, thông khí kém cũng ảnh hưởng đến việc ra rễ. Sau khi cành chồi ra rễ, cần tăng cường chăm sóc nước và phân. Đầu tháng 7, giai đoạn tăng trưởng nhanh của cây con bắt đầu, lúc này cần bón phân hóa học tốc độ nhanh 2-3 lần. Để đảm bảo thân cây trưởng thành đầy đủ, từ tháng 7 đến tháng 8 cần ngừng hoặc giảm lượng nước và phân bón, đồng thời tăng cường phòng trừ sâu bệnh, cắt ngọn chính và ngọn phụ, đảm bảo cây con phát triển khỏe mạnh, thúc đẩy tăng trưởng ngang. Trong giai đoạn sinh trưởng, cần thường xuyên xới đất và nhổ cỏ, cải thiện điều kiện thông khí của đất, thúc đẩy sự phát triển của hệ rễ. Phương pháp cấy chồi ngoài trời là phương pháp đơn giản nhất, chi phí thấp, dễ áp dụng, nhưng nếu quản lý không tốt, tỷ lệ sống và tỷ lệ ra cây thấp. Ngoài ra, thời gian sinh trưởng của cây con ngắn hơn, chất lượng cây con tương đối kém. Thông thường mỗi hecta cấy khoảng 6000-7000 cành chồi, tỷ lệ thành công đạt từ 60%-70%. **Phương pháp ép cành:** Phương pháp ép cành là phương pháp nhân giống mà một phần cành của cây lớn sinh rễ sau đó tách rời khỏi cây mẹ. a) Ép cành ngang có thể sử dụng cành thừa 1-2 năm tuổi hoặc cành non hoặc cành phụ của năm nay. Sử dụng cành già một năm để ép cành, trong mùa đông năm trước, giữ lại cành măng ở gần gốc cây mẹ, vào mùa xuân trước khi mầm nứt, tiến hành ép cành. Đầu tiên, đào một rãnh sâu 10-15 cm gần cây mẹ, đáy rãnh bón phân và đào sâu, làm đất mềm. Sau đó xử lý cành ép bằng cách khắc vết ở phần dưới, đặt cành ép nằm ngang trên đáy rãnh, cố định bằng gỗ hoặc móc sắt, phủ lớp đất dày khoảng 4-5 cm, đất cần được nén chặt và giữ ẩm để phát triển mầm và rễ. b29 club Khi cành ép mọc mầm và cây con dài đến 15-20 cm, cần ủ thêm đất dưới gốc. Khi cây con dài hơn 40 cm và phần gốc bán gỗ hóa, cần ủ thêm đất, lấp đầy rãnh để thúc đẩy ra rễ. Sử dụng cành non để ép cành gọi là ép cành xanh. Có thể sử dụng cành măng mọc từ gốc cây mẹ, kéo dài để cành phụ mọc thẳng đứng, phần gốc mọc rễ mới, sau khi cành phụ trưởng thành vào mùa thu, cắt thành cây con độc lập, thành công. Cách làm cụ thể: Chọn cành măng tốt của cây mẹ, khi dài khoảng 1 mét, cắt ngọn và kéo ngang để kích thích mầm và cành phụ phát triển; khi cành phụ dài khoảng 20 cm, đào một rãnh sâu 10-15 cm, đặt cành măng kéo ngang vào rãnh, để cành phụ mọc thẳng đứng lên trên, sau đó lấp đất và nén chặt. Khi cành phụ dài khoảng 40 cm, lấp đầy rãnh, và xử lý vết khắc ở phần dưới của cành ép để thúc đẩy phần gốc nhanh chóng ra rễ. b) Ép cành uốn cong giống như phương pháp ép cành cành già, nhưng ép cành trong rãnh uốn cong, phần dưới uốn cong xuống, cố định bằng gỗ hoặc móc sắt, đè chặt xuống rãnh để ra rễ. Phần trên uốn cong có nụ mầm, mọc ra cành con thành cây. Trước khi ép cành, cần xử lý khắc để thúc đẩy ra rễ. c) Ép cành trên không vào cuối mùa xuân trước khi nứt mầm, dùng túi nhựa đựng đất để bọc cành, hoặc dùng ống tre nhỏ, chậu hoa, bên trong đựng đất dinh dưỡng, sau đó bọc cành, cố định, tưới nước để ra rễ. Thường vào tháng 7-8, cắt dần phần dưới của túi xuống dưới, tách khỏi cây mẹ, trở thành cây con độc lập. Ép cành trên không cũng có thể sử dụng cành non bán gỗ hóa, phương pháp giống như ép cành già. Đối với cành con mới ra từ ép cành, quản lý giống như cành ghép, chủ yếu chú ý tưới nước thường xuyên, giữ ẩm đất để ra rễ và phát triển cành. **Phương pháp ghép cây:** Phương pháp ghép xanh bằng cách cắt chữ V là phương pháp ghép chủ yếu hiện nay. a) Thời gian ghép: Khi cây gốc và cành ghép đạt trạng thái bán gỗ hóa có thể bắt đầu ghép, có thể ghép liên tục cho đến khi cây con mới ghép trưởng thành trong mùa thu. Khu vực phía Bắc như Hắc Long Giang, Cát Lâm có thể từ tháng 5 đến tháng 6, thời gian ghép kéo dài khoảng 1 tháng; khu vực phía Nam của Liêu Ninh và các tỉnh như Sơn Đông, Hà Bắc có thể ghép trong hơn 2 tháng, nếu kết hợp với nhà kính, thời gian ghép sẽ dài hơn. b) Thu hoạch cành ghép: Cành ghép lấy từ cây mẹ có nguồn gốc thuần chủng, khỏe mạnh, không bị sâu bệnh. Có thể kết hợp với việc cắt tỉa mùa hè như bỏ nhánh, tỉa ngọn, bỏ cành phụ. Tốt nhất nên lấy cành ghép gần vườn ươm, cắt ngay lập tức ghép, tỷ lệ sống cao. Nếu cần lấy từ nơi khác, cành xanh vừa cắt cần bỏ lá ngay lập tức, bọc bằng khăn giấy mới và màng plastic hoặc đặt trong chai giữ nhiệt, đáy đặt một ít đá viên, trong 2-3 ngày có thể giữ cành ghép tươi. Sau khi đến nơi, bọc cành ghép bằng khăn ướt từng lớp, đặt trong ngăn đá tủ lạnh ở nhiệt độ 3-4°C, có thể bảo quản trong 3-4 ngày mà tỷ lệ sống vẫn cao. Nếu không có tủ lạnh, có thể treo cành ghép trên mặt nước trong giếng sâu để giữ tươi, hiệu quả cũng rất tốt. c) Phương pháp ghép: Chủ yếu là ghép chữ V. Đầu tiên chọn cành ghép xanh bán gỗ hóa, mắt tốt nhất nên sử dụng mắt mùa hè vừa nứt mầm chưa nở lá, tỷ lệ sống và tăng trưởng sau ghép cao, phát triển nhanh. Nếu mắt mùa hè đã nở 3-4 lá, cần cắt bỏ nhánh phụ, sử dụng mắt mùa đông. Mắt mùa đông nảy mầm chậm nhưng sau khi nảy mầm phát triển nhanh và mạnh. Khối lượng và độ trưởng thành của cây gốc và cành ghép giống nhau, tỷ lệ sống cao. Trước khi ghép, cắt cành ghép xanh bằng dao ghép sắc bén hoặc dao cạo mặt, đặt trong chậu nước mát để giữ, nếu nhiệt độ cao cần thay nước thường xuyên để hạ nhiệt độ. Khi ghép, để lại 3-4 lá trên cây gốc, bỏ mắt, cắt ngọn ở phần trên, cắt ngang ở mặt cắt giữa, dài 2,5-3 cm. Chọn cành ghép có cùng khối lượng và độ trưởng thành với cây gốc, từ phía dưới mắt 0,5 cm, cắt hai mặt nghiêng thành hình chữ V dài 2,5-3 cm, đầu dao phải phẳng. Sau khi cắt xong cành ghép, đưa vào chỗ cắt của cây gốc, để hai lớp tạo hình khớp nhau, phần đầu cành ghép lộ ra 0,5 mm, giúp dễ dàng liền sẹo. Sau đó dùng màng plastic mỏng rộng 0,5-0,6 cm, bắt đầu từ dưới mặt cắt của cây gốc, quấn quanh, chỉ để lộ mắt ghép, quấn đến phần trên của đầu cành ghép, sau đó quấn lại dưới cùng, buộc nút lỏng. Nếu thời gian ghép sớm, nhiệt độ thấp, sau khi quấn màng plastic, có thể bọc thêm túi nhỏ plastic để giữ nhiệt và ẩm, tăng tỷ lệ sống. d) Quản lý cây ghép ngoài ruộng: Sau khi ghép, tưới nước kịp thời, làm sạch cành gốc và phòng trừ sâu bệnh. Trong tuần đầu tiên sau ghép, đất cần giữ độ ẩm đầy đủ, bề mặt đất ẩm ướt; thường xuyên và nhiều lần loại bỏ cành măng của cây gốc, tập trung dinh dưỡng, thúc đẩy mắt ghép nảy mầm và phát triển. Khi cành mới nảy mầm dài 25-30 cm, cần cắm que tre hoặc cành cây hoặc dây sắt mỏng để cố định, tiếp tục cố định khi cành dài thêm, tránh nhiễm bệnh khi chạm đất và gãy cành. Mỗi cây con chỉ giữ lại một cành mới, cành phụ trong nách lá cành mới cần để lại một lá rồi tỉa ngọn. Giai đoạn cuối (từ tháng 8 đến tháng 9), tỉa ngọn ở đỉnh cành để thúc đẩy tăng trưởng ngang và trưởng thành. Từ tháng 6 đến tháng 7, bón phân kali urê hoặc ammonium phosphate mỗi lần, mỗi mẫu sử dụng 15 kg.
01-19

[Không hoa (danh pháp khoa học: ) là một loài cây ra hoa thuộc họ Dâu tằm, chi Dâu tằm, chủ yếu phát triển ở các khu vực nhiệt đới và ôn đới, là một cây bụi nhỏ. Không hoa được biết có khoảng 800 giống, phần lớn là cây thường xanh, chỉ có các giống mọc ở vùng ôn đới mới là cây. Quả hình cầu, có một lỗ nhỏ ở đuôi, phấn hoa được truyền bởi ong vàng. Còn được gọi là Aris (The Suối Y) dịch từ tiếng Ba Tư: Anjir, ngoài việc ăn tươi và làm thuốc, không hoa còn được chế biến thành khô, mứt, siro, trà, rượu, đồ uống, hộp thủy tinh. Không hoa khô không có bất kỳ chất hóa học nào, vị ngọt đậm, hương vị thơm ngát. Siro và đồ uống từ không hoa có hương thơm đặc trưng, kích thích nước bọt, trẻ em và người già đều có thể ăn được. Cây không hoa có tán lá rộng, dáng cây đẹp, có giá trị thẩm mỹ cao, là loại cây trồng cảnh và cây xanh sân vườn tốt. Nó cho quả ngay trong năm đầu trồng, là loại cây ăn quả trong chậu tốt nhất. Nếu phát triển mạnh mẽ không hoa thành cây cảnh, lợi nhuận sẽ rất lớn, là loại cây ăn quả trong chậu có tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Trong Kinh Thánh (Phúc âm), cũng có câu chuyện về không hoa và Chúa Giêsu (Tứ phúc âm). **Đặc điểm hình thái:** Cây bụi, cao từ 3-10 mét, nhiều cành; vỏ cây màu xám, lỗ khí rõ rệt; cành nhỏ thẳng, thô. Lá mọc so le, dày, hình bầu dục rộng, dài và rộng gần bằng nhau, 10-20 cm, thường chia 3-5 thùy, thùy nhỏ hình trứng, mép có răng không đều, mặt trên thô ráp, mặt dưới phủ đầy lông tơ nhỏ và lông ngắn màu xám, gốc hình tim nông, có 3-5 mạch gốc, các mạch bên 5-7 đôi; cuống lá dài 2-5 cm, thô; lá bọc hình mũi mác, dài khoảng 1 cm, màu đỏ. Cây đực và cây cái riêng biệt, hoa đực và hoa cùng sinh trong cùng một quả dâu, hoa đực sinh ở phần miệng của quả dâu, có 4-5 cánh hoa, 3 nhị hoa, có khi 1 hoặc 5, hoa có nhụy bên, ngắn; hoa cái có cánh hoa giống hoa đực, bầu quả hình bầu dục, nhẵn, nhụy bên, đầu cột hoa chẻ đôi, hình dây. Quả dâu mọc đơn lẻ ở nách lá, lớn và hình quả lê, đường kính 3-5 cm, đỉnh lõm xuống, khi chín có màu tím đỏ hoặc vàng, có 3 lá bao bì hình trứng; hạt hình lăng kính. **Môi trường sống:** Ưa thích khí hậu ấm áp và ẩm ướt, chịu được nghèo đất, chống hạn tốt, không chịu lạnh, không chịu ngập nước. Thích hợp trồng trên đất hướng nắng, tầng đất dày, đất tơi xốp và màu mỡ, thoát nước tốt, đất cát hoặc đất pha cát. **Phân bố:** Nơi xuất xứ là ven biển Địa Trung Hải. Hiện nay phân bố từ Thổ Nhĩ Kỳ đế Trung Quốc đã nhập vào từ Ba Tư vào thời Đường, hiện nay đã trồng ở cả miền Nam và miền Bắc, đặc biệt nhiều ở khu vực phía Nam Tân Cương. **Phương pháp nhân giống:** Nhân giống bằng cành giâm, chia cây, ép cành, chủ yếu là phương pháp giâm cành. Giâm cành vào giữa tháng 3 đến đầu tháng 4, chọn cành khỏe mạnh chưa nứt mầm từ cây mẹ 1-3 năm tuổi, cành có khoảng cách mắt chồi ngắn, đường kính 1-1,5 cm, cắt thành đoạn dài 30-50 cm, đặt theo hàng cách nhau 50 cm, chồi cành nghiêng xuống đất khoảng 2/3, phần còn lại để lộ trên mặt đất, lấp đất và nén chặt, tưới nước giữ ẩm. Giâm cành vào mùa hè, có thể sử dụng cành non bán gỗ hóa. Sau khoảng 1 tháng giâm cành sẽ ra rễ. Sau khi trồng 1 năm có thể chuyển cây. Cũng có thể bảo quản cành giâm trong cát ướt 1 tháng để tạo mô sẹo rồi giâm tiếp. Chia cây vào tháng 2-3, trồng bằng cách chia cây, khoảng cách giữa các hàng và cây là (3-4) m × (3-4) m. Trước khi trồng cần cắt tỉa, bỏ các cành quá dày hoặc cành khô, trồng tốt nhất khi cây chưa chảy nhựa hoặc khi chưa nứt mầm. **Kỹ thuật trồng:** Có thể trồng trong chậu hoặc trồng trên đồi trống, vườn nhà. Khi trồng trên đồi trống, vườn nhà hoặc sân vườn, mật độ trồng thường tăng lên, có thể sử dụng 1×2 mét, độ sâu hố trồng 50-70 cm, đường kính 40-60 cm, bón hỗn hợp phân có chứa phosphat và kali (như phân người, phân động vật, phân xanh, phân bánh dầu, phân hóa học phức hợp) làm phân bón cơ bản, thời điểm trồng thích hợp ở miền Bắc vào khoảng thời gian lễ thanh minh, miền Đông Bắc thích hợp vào khoảng lễ vũ lăng, miền Nam có thể trồng vào mùa thu sau khi cây rụng lá, nhưng nên tránh thời gian ra hoa và kết quả. **Chăm sóc và bảo dưỡng:** Việc tạo hình và tỉa cành đối với cây không hoa khá đơn giản, yêu cầu kỹ thuật thấp, thường sử dụng kiểu hình cây tự nhiên với 3-5 cành chính, không giữ cành phụ, các nhóm cành chính trực tiếp mọc từ cành chính. Trong giai đoạn cây non, tập trung nuôi dưỡng cành chính, nâng góc cành chính để khuyến khích phát triển nhiều cành, đạt mục đích mở rộng tán cây nhanh chóng. Sau khi cây bước vào giai đoạn kết quả, chú ý nuôi dưỡng nhiều nhóm cành để tăng sản lượng. Khi cây bước vào giai đoạn kết quả chính, chú ý nuôi dưỡng cành chính và các nhóm cành lớn, tỉa cành yếu, cắt cành già hoặc bị sâu bệnh. Đối với cây già hoặc bị sâu bệnh nghiêm trọng, có thể sử dụng cành măng hoặc mầm ẩn ở gốc hoặc cành để tái tạo cành chính và nhóm cành. Cây không hoa bắt đầu kết quả từ tháng 7 và kéo dài đến tháng 11. Thời điểm thu hoạch quả không hoa thường nên chọn vào buổi sáng hoặc chiều tối trong ngày nắng, khi quả đã chín, lỗ nhỏ ở đỉnh quả mở nhẹ, vỏ quả có màu đặc trưng của giống (thường là màu đỏ hoặc vàng), thu hoạch ngay khi quả đạt đến độ chín. Quả quá chín sau khi thu hái không chịu được bảo quản và vận chuyển. Quản lý trong vườn, sau khi cây sống, tiến hành xới đất và nhổ cỏ. Mỗi năm bón phân người hoặc sunfat amoni 1 lần vào tháng 6 và tháng 7. Sau khi trồng, cần tạo tán hình tháp hoặc hình tự nhiên với nhiều cành chính, thường có thể định hình cây ở độ cao 50 cm, giữ lại 5-7 cành chính và chọn thêm một số cành phụ để lấp khoảng trống. Sau khi cây đã định hình, mỗi năm cần tỉa cành, loại bỏ cành quá dày, cành bệnh và cành khô. Việc tỉa cành nhẹ hơn. **Cây non không hoa:** Nếu phân bón cơ bản thiếu, cần bón phân. Phương pháp bón phân cách gốc khoảng 40 cm, mỗi cây bón khoảng 5 kg phân hữu cơ đã ủ; đối với cây trồng trong chậu, ít nhất bón 1 kg. Đối với cây trưởng thành, mỗi cây bón khoảng 15 kg phân hữu cơ đã ủ, bón trước khi rụng lá và sau khi rụng lá, bón thúc vào giai đoạn tăng trưởng nhánh non và giai đoạn quả nhanh chóng phình to. Không hoa là loại cây ăn quả chịu phân bón tốt, nhưng cần ưu tiên bổ sung kali và photpho, tỷ lệ phân bón thông thường là 0,5:1:1. Vì nó chịu hạn tốt nhưng không chịu ngập nước, giai đoạn tăng trưởng nhánh non và phình quả cần nước nhiều, nhưng môi trường ngập nước lâu dài hoặc tích nước quá mức dễ dẫn đến rụng hoa, rụng quả, rụng lá, thậm chí chết cây, vì vậy cũng cần chú ý thoát nước. Đối với cây trồng trong chậu cũng cần chú ý thoát nước, đặc biệt trong mùa mưa hoặc mưa lớn sau chuỗi ngày mưa liên tiếp, cần che mưa hoặc lật chậu để thoát nước. Phòng trừ sâu bệnh: Không hoa ít xảy ra sâu bệnh. Trong giai đoạn sinh trưởng quả, tỏa ra mùi đặc biệt dễ thu hút sâu kiến; khi quả chín dễ bị chim tấn công. Ngoài việc bắt sâu kiến và đuổi chim bằng tay, có thể tiêu diệt trứng sâu bằng thuốc hoặc thuốc trừ sâu. Cũng có thể dùng cỏ nhân tạo buộc dải nhựa màu sắc đặt trong ruộng để đuổi chim. **Phân loại loài:** Loại Branca Rik Summer-Autumn Fruit Mixed, quả mùa hè ít, chủ yếu là quả mùa thu, quả mùa hè hình bầu dục, khi chín màu xanh vàng; quả mùa thu hình ngược hình nón hoặc ngược hình bầu dục, trọng lượng trung bình mỗi quả 50-60g, vỏ quả màu nâu vàng, quả rỗng; thịt quả màu đỏ nâu, chứa chất rắn hòa tan trên 16%, vị ngọt và thơm, loại cây này có sức sống vừa phải, dáng cây bán mở, thân cây nhỏ gọn, nhánh phân nhánh yếu, khả năng kết quả liên tục mạnh, năng suất không cao, chịu lạnh tốt, chịu mặn tốt. tin tuc the thao 24h Loại Persimmon Cut có quả không hoa. Quả mùa thu ít. Quả mùa thu hình ngược hình nón hoặc hình bầu dục, đỉnh tròn và hơi bằng phẳng dễ bị nứt, trọng lượng trung bình mỗi quả 60-70g, vỏ dày, màu đỏ tía; thịt quả màu đỏ tươi, chứa chất rắn hòa tan 16%, vị ngọt nhưng thịt thô, không có hương thơm. Loại cây này có sức sống rất mạnh, dáng cây thẳng đứng, tán cây cao lớn, sinh trưởng mạnh. Cành thưa, cành dài và thô, sức sống chịu lạnh tốt. **Giá trị chính:** **Giá trị thuốc:** Giúp tiêu hóa, giải độc. Điều trị viêm ruột, tiêu chảy, táo bón, trĩ, đau họng, ung nhọt, ghẻ, vẩy nến, lợi họng, chống ký sinh trùng. - Dùng cho người ăn không tiêu, đau bụng đầy hơi, táo bón, tiêu chảy, trĩ, tràn dịch phổi, mất sữa, đau họng, ho có đờm, ho gà, ho khan. - Theo Dược thảo Nam (Diên Nam Bản Thảo): Rửa tất cả các loại u nhọt không tên, ung nhọt, ghẻ, vẩy nến,,, cáu máu, cáu độc, lactation, da độc. - Theo Thiên Biện Đồ C: Chữa bệnh họng. - Theo Ngũ Dược Bổ (Wang Ying): Mở dạ dày, dừng tiêu chảy. - Theo Cương Mục: Chữa bệnh trĩ, đau họng. - Theo Sinh Thảo Dược Tính Bổ: - Rửa trĩ. - Nấu thịt với hạt, giải độc. - Hoa, thông sữa. - Theo Y Lâm: Bổ phổi, thông sữa. - Theo Tư Sĩ Cư Dưỡng Thực: - Làm mát, nhuận tràng. - Theo Kiến Giang Trồng Thực: - Dịch trắng từ quả bôi ngoài để chữa sùi. - Theo Y Vân Trung Thảo: - Giúp tiêu hóa, cầm tiêu chảy, trừ đờm, điều khí. **Các bài thuốc phổ biến:** - Chữa đau họng: Quả không hoa tươi phơi khô, nghiền thành bột, thổi vào cổ họng. - Chữa viêm phế quản: 5g quả không hoa, sắc với đường phèn uống. - Chữa trĩ, sa trực tràng, táo bón: Ăn sống quả không hoa tươi hoặc uống 10 quả khô với đoạn ru
Trang trước
1

Công ty Phát triển Nông nghiệp Đặc sắc Giang Tây Yijin

Địa chỉ: Số 1108 Đường Qinglan, Khu kinh tế mới Jinxiang, tỉnh Giang Tây
Điện thoại:

Bộ phận bán hàng:
JD Mall: http://junlanhu.jd.com

Nông nghiệp Đặc sắc Yijin

JD Mall

Bản quyền © 2020 Công ty Phát triển Nông nghiệp Đặc sắc Giang Tây Yijin 789club Xây dựng website: Công ty Trung Quốc Động lực Nam Xương